Nghị định 207/2025/NĐ-CP, dự kiến có hiệu lực từ ngày 1/10/2025, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quyền sinh sản của phụ nữ độc thân tại Việt Nam. Theo quy định mới, phụ nữ không kết hôn sẽ có cơ hội tiếp cận kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bao gồm thụ tinh trong ống nghiệm, nếu có nhu cầu và nguyện vọng chính đáng.
Trước đây, theo Nghị định 10/2015/NĐ-CP, phụ nữ độc thân chỉ được phép thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm khi có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Tuy nhiên, với quy định mới này, họ sẽ không cần phải có lý do y tế để thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Thay vào đó, họ có quyền chủ động làm mẹ mà không còn bị ràng buộc bởi các lý do y tế.
Nghị định 207 mở rộng quyền tự do sinh sản cho phụ nữ độc thân, phù hợp hơn với xu hướng xã hội hiện đại và nhu cầu cá nhân của phụ nữ. Theo quy định mới, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ được áp dụng cho các cặp vợ chồng vô sinh có chỉ định y tế hoặc phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp nhưng mong muốn sinh con.
Một điểm quan trọng khác trong Nghị định là việc hiến tinh trùng, noãn, phôi phải được thực hiện tại các cơ sở được cấp phép lưu giữ. Hơn nữa, các mẫu hiến tặng này chỉ được sử dụng cho một người hoặc một cặp vợ chồng, nhằm đảm bảo tính minh bạch và đạo đức trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Nghị định cũng đặt ra nhiều điều kiện chặt chẽ để thực hiện mang thai hộ. Cụ thể, các cơ sở y tế được phép thực hiện kỹ thuật này phải có ít nhất 2 năm kinh nghiệm trong kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và tối thiểu 500 chu kỳ thụ tinh mỗi năm trong 2 năm gần nhất.
Ngoài ra, Nghị định quy định rõ hồ sơ và quy trình mang thai hộ. Cặp vợ chồng vô sinh muốn nhờ mang thai hộ cần nộp hồ sơ tại cơ sở y tế được cấp phép, bao gồm đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, bản xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của bên mang thai hộ hoặc bên nhờ mang thai hộ, giấy tờ chứng minh người mang thai hộ đã từng sinh con và thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Cuối cùng, trẻ em sinh ra thông qua hình thức mang thai hộ cũng được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền lợi như mọi trẻ em khác. Điều này đảm bảo rằng các quyền lợi cơ bản của trẻ em được bảo vệ và tôn trọng, bất kể phương pháp sinh sản mà chúng được thụ thai.